Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

‘’SUY NGHĨ VỀ NƯỚC MỸ’’

-Nước Mỹ được được thành lập dựa trên nền tảng của Kinh Thánh (là lời của Thiên Chúa).
-Nhóm đầu tiên những người thành lập nên nước Mỹ là những Cơ Đốc Nhân (thuộc địa tách khỏi sự kiểm soát của nước Anh)
-Duy nhất nước Mỹ là đồng minh của nước isơrael (nước do thái,là nước mà Thiên Chúa chọn làm tuyển dân)
-Chỉ có 200 năm lịch sử,nước Mỹ đã trở thành siêu cường số 1thế giới,điều mà các nước khác trên thế giới không làm được.
-40 đời tổng thống Mỹ là Cơ Đốc Nhân (trừ Obama) 
-Đồng tiền đô la của nước Mỹ có in chữ:"In God We Trust" (chúng tôi tin nơi Chúa)
-Một số điều luật và hiến pháp nước Mỹ được lập dựa trên các điều răn trong Kinh Thánh.
-Là nước có Kinh tế,khoa học kỹ thuật,văn hóa số 1 thế giới đã tin vào Thiên Chúa là Đức Chúa Trời hằng hữu,Đấng tạo hóa đã dựng nên loài người (chứ không phải con người tiến hóa từ con vượn) ,đây là câu trả lời cho những người theo quan điểm duy vật:’’thời đại nào mà còn tin vào Thần,Thánh,’’
Tuy nhiên,theo sự ứng nghiệm lời tiên tri của Thánh Kinh thì nước Mỹ bây giờ không còn được như nước Mỹ ngày trước bởi vì tội lỗi chồng chất tội lỗi,khoảng vài chục năm gần đây,nước mỹ đang trên đà suy thoái ,tội thờ hình tượng,gỡ bõ điều răn và luật pháp Chúa ra khỏi trường học,ủng hộ hôn nhân đồng tính và cho phép một người không phải là Cơ Đốc Nhân lên lãnh đạo đất nước (Obama theo hồi giáo).
Có một nước khác tưởng chừng như đã bị diệt chủng,xóa sổ khỏi bản đồ thế giới,thế nhưng ngày hôm nay,nước đó đã được tái sinh một cách lạ lùng,nền kinh tế,khoa học kỹ thuật và quân sự của nước đó làm cho thế giới cũng phải kinh sợ,đó chính là quốc gia do thái isơrael!  Dân tộc này là tuyển dân của Đức Chúa Trời,cũng chẳng ngẫu nhiên mà người ta hay nói: ‘’đầu óc do thái’’,’’dân tộc thông minh’’  đúng vậy!nếu như bạn có tìm hiểu về lịch sử của dân tộc do thái thì bạn sẽ biết rằng:Thiên Chúa là có thật và Ngài hiện đang tể trị trên thế giới dù con người không thể nhận biết Ngài,trừ khi tìm kiếm Ngài.
Vậy Thiên Chúa là ai? Kinh Thánh đã bày tỏ về Ngài,sự sáng tạo của Ngài,chính Ngài là đấng đã dựng nên vũ trụ và loài người,toàn bộ lịch sử của nhân loại do Ngài đã sắp xếp theo một chương trình,bạn đã từng đọc Kinh Thánh? bạn sẽ được biết rằng:lịch sử của nhân loại được xảy ra theo lời tiên tri lạ lùng của Kinh Thánh.
Vì sao mà có chiến tranh? Kinh Thánh là lời Thiên Chúa có chép: bởi vì nhân loại chối bỏ sự hiện hữu của Ngài,chẳng đi theo đường lối của Ngài là đường lối mà chính Ngài đã định hướng hầu cho loài người đi đến con đường sự sống,tuy nhiên dù cho con người chẳng nhận biết Ngài nhưng trong ký ức vẫn có khái niệm ‘’Ông Trời’’.Đấng Tạo Hóa’’,bằng chứng là mỗi khi đau khổ hay có chuyện gì,chúng ta đều kêu ‘’Trời’’ điều này được giải thích rằng:vì loài người phạm tội nên mất đi sự hiểu biết về Đức Chúa Trời,bất cứ quốc gia nào đều có khái niệm ‘’Ông Trời’’.
Quả thật! Phước Hạnh cho quốc gia nào có Chúa,dân tộc nào có Đức Chúa Trời làm chủ thật phước hạnh thay!


                                                                                                                                Đức Tuấn

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

Hãy Ăn Năn, Vì Nước Thiên Đàng Đã Đến Gần

Hãy Ăn Năn, Vì Nước Thiên Đàng Đã Đến Gần

 “Hãy Ăn Năn, Vì Nước Thiên Đàng Đã Đến Gần”

Đây chính là lời đầu tiên mà Đức Chúa Jêsus kêu lên khi Ngài đến đất này vào khoảng 2 nghìn năm trước, chịu phép Báptêm ở tuổi 30 và bắt đầu rao truyền Tin Lành (Mathiơ 4:17). Trong lời phán của Đức Chúa Jêsus có chứa đựng ý muốn mong nhân sinh nhân loại chuẩn bị cho Nước Thiên Đàng bằng tấm lòng ăn năn hối cải. Vì Đức Chúa Jêsus mong muốn thảy chúng ta đều đạt tới Nước Thiên Đàng trong khi sống ngay thẳng với tâm linh hối cải khi mà nước của Đức Chúa Trời ngày càng đến gần, nên đã mở cánh cửa truyền đạo bằng lời rằng “Hãy ăn năn!”

 Vào thời điểm năm 2011 cũng đang trôi qua gần hết, nước vĩnh cửu của Đức Chúa Trời ngày càng đến gần chúng ta hơn, hôm nay hơn hôm qua, năm nay hơn năm ngoái. Hãy nghĩ đến Nước Thiên Đàng đang đến gần và hãy cùng xem lời dạy dỗ Kinh Thánh để xem chúng ta phải làm thế nào thì mới có thể đạt đến sự ăn năn hối cải chân thật mà Đức Chúa Trời mong muốn.

 

Sự diệt vong giáng xuống người không ăn năn hối cải


 Trong lễ trọng thể mùa thu gồm Lễ Kèn Thổi, Ngày Đại Lễ Chuộc Tội, Lễ Lều Tạm, mà chúng ta giữ gìn, có chứa ý nghĩa của sự ăn năn hối cải. Tuy trọng tâm của Lễ Lều Tạm là truyền đạo, song để thực sự thực hiện truyền đạo mà Đức Chúa Trời mong muốn thì phải có nền tảng là sự ăn năn hối cải. Truyền đạo không với nền tảng là sự ăn năn hối cải thì chẳng có ý nghĩa gì cả.

 Xét theo lời tiên tri thì chúng ta đang sống trong thời đại Lễ Lều Tạm. Trước tiên, chúng ta phải nhận thức đúng về tội lỗi của bản thân mình, và nhất định phải ăn năn đau đớn hối cải triệt để thảy tội lỗi ấy. Bằng tấm lòng ấy mà khiến ăn năn hối cải kể cả những linh hồn khác nữa. Đây chính là cuộc vận động ăn năn hối cải mà chúng ta, những người sống vào thời đại này, phải làm.

Thi Thiên 7:10-12 “Đức Chúa Trời là cái khiên tôi, Ngài là Đấng cứu rỗi những kẻ có lòng ngay thẳng. Đức Chúa Trời là quan án công bình, Thật là Đức Chúa Trời hằng ngày nổi giận cùng kẻ ác. Nếu kẻ ác không hối cải, thì Đức Chúa Trời sẽ mài gươm: Ngài đã giương cung mà chực cho sẵn.”

 Đức Chúa Trời là Đấng nhu mì, công bình và nhân từ, song Ngài đã phán rằng Ngài sẽ mài gươm, đã giương cung mà chực cho sẵn đối với những người không ăn năn hối cải. Vì linh hồn không ăn năn hối cải sẽ bị hủy diệt như thế này, nên Đức Chúa Trời đang yêu cầu nhân loại phải ăn năn hối cải. Trong lời “Hãy ăn năn!” có bao hàm ý nghĩa rằng “Hãy có đầy đủ điều kiện để có thể đi vào Nước Thiên Đàng!”

Êxêchiên 18:30-32 “Vậy nên Chúa Giêhôva phán rằng: Hỡi nhà Ysơraên, ta sẽ đoán xét các ngươi, mỗi người theo việc làm của nó. Hãy trở lại và xây bỏ mọi sự phạm pháp của các ngươi; vậy thì sự gian ác không trở nên cớ hư nát cho các ngươi. Hãy liệng xa các ngươi mọi sự phạm pháp mà tự mình đã làm. Hãy làm cho mình lòng mới và thần mới; vì, hỡi nhà Ysơraên, làm sao mà các ngươi muốn chết? Chúa Giêhôva phán rằng: Thật vậy, ta không vui đâu về sự chết của kẻ phải chết, vậy các ngươi hãy xây lại, mà được sống!”

 Lời phán trên biểu hiện rất rõ nét tấm lòng của Đức Chúa Trời thương tiếc cho những linh hồn đang chết dần do không ăn năn hối cải. Vào thời đại Tân Ước, Đức Chúa Trời cũng đã phán rõ ràng rằng những người không ăn năn hối cải sẽ bị hủy diệt.

Luca 13:1-5 “Cũng lúc ấy, có mấy người ở đó thuật cho Đức Chúa Jêsus nghe về việc Philát giết mấy người Galilê, lấy huyết trộn lộn với của lễ họ. Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Các ngươi tưởng mấy người đó vì chịu khốn nạn dường ấy, có tội lỗi trọng hơn mọi người Galilê khác sao? Ta nói cùng các ngươi, không phải; song nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy sẽ bị hư mất như vậy. Hay là mười tám người bị tháp Silôê ngã xuống đè chết kia, các ngươi tưởng họ có tội lỗi trọng hơn mọi kẻ khác ở thành Giêrusalem sao? Ta nói cùng các ngươi, không phải; nhưng nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ bị hư mất như vậy.”

 Sở dĩ Đức Chúa Jêsus đã bắt đầu truyền đạo bởi lời phán rằng “Hãy ăn năn!” và cứ liên tục yêu cầu ăn năn hối cải như thế này là vì sự diệt vong, sự chết và đau đớn địa ngục đang chờ đợi những người không ăn năn hối cải.

 Chẳng phải cứ hễ chúng ta được đi vào Siôn và ở giữa ân điển của Đức Chúa Trời mà làm bất cứ hành động gì thì cũng được cứu rỗi đâu. Chúng ta cần chuẩn bị để đi vào Nước Thiên Đàng vĩnh cửu. Đức Chúa Trời duy chỉ mong chúng ta có đức tin ăn năn hối cải và quay trở về, nên hãy sống cuộc sống ăn năn hối cải trong khi nhìn lại bản thân xem mình có đang làm theo như lời dạy dỗ của Đức Chúa Trời không.

 

Đức Chúa Trời đến để gọi tội nhân ăn năn hối cải


 Về cơ bản, nhân sinh chúng ta là những thiên sứ đã phạm tội trên Nước Thiên Đàng mà bị đuổi xuống trái đất này. Chúng ta vốn lẽ là tội nhân, nên để trở về Nước Thiên Đàng thì phải ăn năn hối cải trước đã. Đức Chúa Jêsus đến trái đất này cũng là để gọi tội nhân ăn năn hối cải.

Luca 5:31-32 “Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Không phải người khỏe mạnh cần thầy thuốc, song là người đau ốm. Ta không phải đến gọi kẻ công bình hối cải, song gọi kẻ có tội.”

 Tội nhân được nói đến ở đây nghĩa là các linh hồn đã phạm tội ở thế giới thiên sứ trên trời. Đối với những nhân sinh là tội nhân, cũng có tội đã phạm ở trên thiên thượng, cũng có rất nhiều tội đã phạm trước Đức Chúa Trời, mà mình không hay biết, kể cả sau khi xuống trái đất. Dù vậy, người ta sống trong thế gian tội ác này mà không nhận biết tội lỗi là tội lỗi, bởi tâm linh bị vô cảm.

 Không ăn năn hối cải thì không thể lãnh được kể cả Nước Thiên Đàng lẫn sự cứu rỗi. Các tội nhân linh hồn phạm tội trên trời và bị đuổi xuống, có thể trở về Nước Thiên Đàng mà không với sự ăn năn hối cải, chẳng phải đây là điều không thể có được hay sao? Cho nên Đức Chúa Trời đã phán rằng hãy ăn năn. Đức Chúa Trời đang khẩn thiết mong đợi các con cái tội nhân ăn năn hối cải mà trở về.

Luca 15:4-7 “Trong các ngươi ai là người có một trăm con chiên, nếu mất một con, mà không để chín mươi chín con nơi đồng vắng, đặng đi tìm con đã mất cho kỳ được sao? Khi đã kiếm được, thì vui mừng vác nó lên vai; đoạn, về đến nhà, kêu bạn hữu và kẻ lân cận, mà rằng: Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được con chiên bị mất. Ta nói cùng các ngươi, trên trời cũng như vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn hơn là chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn.”

Chín mươi chín người công bình trên thiên thượng là tồn tại làm vui mừng và dâng nhiều vinh hiển lên Đức Chúa Trời biết bao nhiêu. Song, Đức Chúa Trời đã cho chúng ta biết rằng khi một tội nhân ăn năn hối cải thì Ngài còn vui mừng hơn là niềm vui có được bởi chín mươi chín người công bình ấy.

 Vậy thì chúng ta cũng có thể biết được sự thật rằng sự một tội nhân ăn năn hối cải thật không phải là việc dễ dàng chút nào. Đứa trẻ được sanh ra mà cha mẹ cứ để mặc nó, thì một mình đứa trẻ không thể tự trưởng thành thành người lớn trọn vẹn được. Cha mẹ phải cho con cái ăn đúng giờ, cũng dành cho tình yêu thương, và chỉ đạo để cho tránh xa việc ác mà làm công việc công bình và thiện lành, biết phân biệt điều đúng và sai. Giống như vậy, khi làm cho một linh hồn ăn năn hối cải, cũng cần nỗ lực như thế này.

 Người mới bắt đầu sinh hoạt đức tin đang ở trong giai đoạn bắt đầu ăn năn hối cải chứ không phải đã đạt tới sự ăn năn hối cải trọn vẹn rồi. Chẳng phải cứ hễ đối phương đã chịu phép Báptêm rồi là truyền đạo kết thúc đâu, mà chúng ta còn phải dạy dỗ và giúp đỡ nhiều cho đến tận khi linh hồn ấy chân thành bộc bạch tội lỗi của mình trước Đức Chúa Trời, ăn năn hối cải và dự phần vào vinh hiển vĩnh cửu trên trời. Chúng ta phải cho họ biết đúng lời của Đức Chúa Trời, nuôi dưỡng cho họ kể cả năng lực biết phân biệt cái thuộc về ma quỉ Satan và cái thuộc về Đức Chúa Trời nữa. Thông qua quá trình này, người đó có thể sám hối tội lỗi của mình, nỗ lực giúp linh hồn khác cũng ăn năn hối cải, và được đến với con đường ăn năn hối cải chân chính.

Ăn năn hối cải thật sự được hoàn thành bằng kết trái của sự ăn năn


 Cho tới tận khi một linh hồn hối cải như thế này, tâm linh chúng ta chắc sẽ bị tổn thương nhiều. Thông qua quá trình đó, chúng ta sẽ hiểu ra Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ đã đau lòng biết bao nhiêu bởi tấm lòng cố chấp và không ăn năn hối cải trong quá khứ của chúng ta, nhờ đó chúng ta có thể đạt đến sự ăn năn hối cải sâu sắc hơn.

 Chỉ khi bản thân mình hối cải sâu sắc thì mới có thể dẫn dắt cho người khác cũng có thể ăn năn hối cải, chứ người không ăn năn hối cải thì không thể giúp người khác ăn năn hối cải được. Cho nên, Đức Chúa Trời đã phán rằng “Các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được.” (Mathiơ 7:20). Đức Chúa Trời đang dõi xem chúng ta đang ăn năn hối cải bao nhiêu thông qua trái của chúng ta.

 Để loại bỏ đi tất thảy mọi cáu cặn đã thấm đẫm vào thế tục suốt thời gian qua, và một mực sống trong lời của Đức Chúa Trời với tư cách là người trên trời thì trên hết là chúng ta phải ăn năn hối cải. Truyền đạo là phương pháp để chúng ta có thể biểu hiện bằng hành động về tình yêu của mình đối với Đức Chúa Trời, và lại cũng là công việc người ăn năn hối cải chân thật có thể làm.

I Têsalônica 2:1-4 “Hỡi anh em, chính anh em biết rõ rằng chúng tôi đã đến nơi anh em, ấy chẳng phải là vô ích đâu; nhưng sau khi bị đau đớn và sỉ nhục tại thành Philíp, như anh em đã biết, thì chúng tôi trông cậy Đức Chúa Trời, cứ rao truyền đạo Tin Lành của Đức Chúa Trời cách dạn dĩ giữa cơn đại chiến. Vì sự giảng đạo của chúng tôi chẳng phải bởi sự sai lầm, hoặc ý không thanh sạch, cũng chẳng dùng điều gian dối. Nhưng vì Đức Chúa Trời đã xét chúng tôi là xứng đáng giao cho việc giảng Tin Lành, nên chúng tôi cứ nói, không phải để đẹp lòng loài người, nhưng để đẹp lòng Đức Chúa Trời, là Đấng dò xét lòng chúng tôi.”

 Công việc rao truyền Tin Lành không phải được giao phó cho bất kỳ ai mà đã được giao phó cho những người mà Đức Chúa Trời xét là xứng đáng. Có thể nói truyền đạo là biểu hiện hành vi tỏ ra sự thật rằng ai đó đã thật sự ăn năn hối cải. Trong quá trình ấy, đôi khi gặp phải khó khăn đến mức có thể sánh với đau đớn sanh đẻ, song khi chúng ta chiến thắng khó khăn ấy, và có ý chí không chỉ riêng mình ăn năn hối cải, mà còn giúp cho người khác ăn năn hối cải nữa, thì chúng ta có thể được công nhận là người ăn năn hối cải chân thật trước Đức Chúa Trời.

 Cũng có người đáng tiếc đã bỏ lỡ cơ hội dù được ban cho cơ hội ăn năn hối cải như thế này.
Trong lịch sử Cựu Ước có câu chuyện Êsau bán quyền con trưởng cho em trai. Mãi về sau, khi hiểu ra giá trị quyền con trưởng ấy, Êsau đã lại mong muốn được nhận chúc phước của cha, nhưng đã không nhận được. Anh ta đã la lên một tiếng lớn và khóc lóc thảm thiết, cầu xin sự chúc phước dù chỉ là một chút, song đã không nhận được cơ hội ăn năn hối cải (Tham khảo: Sáng Thế Ký chương 25-27, Hêbơrơ 12:16-17).

 Chúng ta không nên để lỡ thời gian cơ hội có thể ăn năn hối cải được ban cho chúng ta. Theo lời “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định”, có kỳ có thể làm việc cũng có kỳ không thể làm việc. Trong kỳ không thể làm việc, cho dù nhận biết ra đến nghìn vạn lần thì cũng không được ban cho điều kiện và cơ hội có thể làm việc.

 Đối với tất thảy mọi điều, giây phút này là quan trọng nhất. Thời gian đã trôi qua rồi, chúng ta không thể làm cho quay lại, song thời gian sau này, chúng ta có thể tái tạo ra bao nhiêu cũng được. Cơ hội có thể rửa sạch tất thảy mọi lỗi lầm trong quá khứ, đã được ban cho chúng ta. Chúng ta có cơ hội cho tới tận giây phút Đức Chúa Trời Cha đến. Cho nên bây giờ chúng ta phải làm việc. Giống như lời “Chính đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại”, nếu đang định làm việc gì đó từ ngày mai rồi lại không có cơ hội làm việc đó thêm nữa thì thật đáng tiếc biết bao nhiêu?

II Timôthê 4:1-5 “Vả lại, hỡi anh em, anh em đã học nơi chúng tôi phải ăn ở cách nào cho đẹp ý Đức Chúa Trời, và điều đó anh em đã làm rồi, thì chúng tôi nhân Đức Chúa Jêsus xin và cầu anh em phải đi luôn theo đường ấy càng ngày càng tới. Anh em biết rõ chúng tôi đã bởi Đức Chúa Jêsus mà truyền cho anh em những điều răn nào. Vì ý muốn Đức Chúa Trời, ấy là khiến anh em nên thánh: tức là phải lánh sự ô uế, mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh sạch và tôn trọng, chẳng bao giờ sa vào tình dục luông tuồng như người ngoại đạo, là kẻ không nhìn biết Đức Chúa Trời.”

 Lời hãy luôn truyền đạo bất luận gặp thời hay không gặp thời, có ý nghĩa là hãy có thời gian ăn năn hối cải bất luận gặp thời hay không gặp thời. Duy chỉ những người đạt được sự ăn năn hối cải chân thật mới được Đức Chúa Trời xét là xứng đáng, và những người được Đức Chúa Trời xét là xứng đáng, sẽ được Đức Chúa Trời giao phó cho công việc giao truyền Tin Lành.

 Chức vụ mà chúng ta, là tội nhân trên trời, có thể làm được, duy chỉ là công việc ăn năn hối cải thôi. Đừng dừng lại ở sự duy chỉ bản thân mình ăn năn hối cải, mà hãy giúp nhiều người khác ăn năn hối cải, dẫn dắt họ đến với Đức Chúa Trời và làm tinh sạch thế gian. Đó là công việc truyền đạo mà bây giờ chúng ta đang tiến hành.

 

Người ăn năn hối cải được đi vào Nước Thiên Đàng


 Giờ Nước Thiên Đàng vĩnh cửu đang đến gần. Ngày đi vào nước của Đức Chúa Trời đang đến gần mà không một ai ăn năn hối cải thì liệu ai có thể đi vào Nước Thiên Đàng được đây?

 Người trông mong Nước Thiên Đàng nhất thiết cần phải ăn năn hối cải. Duy chỉ người ăn năn hối cải mới có thể đi vào Nước Thiên Đàng.

 Ngay cả trong ví dụ về talâng, Đức Chúa Jêsus cũng đã ban lời phán với người làm lợi được năm talâng và người làm lợi được hai talâng rằng hãy cùng tham dự bữa tiệc vui mừng của Đức Chúa Trời. Nghĩa là làm lợi được talâng chính là giúp các tội nhân ăn năn hối cải. Giống như cha mẹ bị cháy lòng bởi nhiều vấn đề khi nuôi dưỡng con cái, vô số việc làm cháy lòng chúng ta cũng sẽ phát sinh khi chúng ta giúp một linh hồn ăn năn hối cải. Vì là thành quả đạt được do nhịn nhục và nỗ lực như thế, nên Đức Chúa Trời đã chúc phước cho kể cả người làm lợi được năm talâng, và cũng chúc phước cho kể cả người làm lợi được hai talâng.

 Người chôn giấu một tâlâng là người không thích công việc khổ nhọc. Nói cách khác, anh ta đã bày tỏ rõ ý chí không thích ăn năn hối cải, nên Đức Chúa Jêsus đã phán rằng hãy quăng người đó ra ngoài là chỗ tối tăm. Những người khác đã ăn năn hối cải nên đã có thể giành được talâng khác của sự ăn năn hối cải, song người chôn giấu một talâng đã không hề có ý ăn năn hối cải. Cho nên, Đức Chúa Jêsus đã phán rằng hãy đuổi người ấy và hãy lấy talâng của người ấy mà cho thêm người có 10 talâng (Mathiơ 25:14-30).

 Đừng để từng ngày từng ngày trôi qua mà không kết trái nào, nhưng ngày hôm nay, hãy cầu nguyện khẩn thiết trước Đức Chúa Trời với tấm lòng ăn năn hối cải. Đức Chúa Trời Cha Mẹ đã mặc đền tạm xác thịt mệt nhọc, đến tận trái đất này để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Hãy có thời gian suy ngẫm, nghiêm túc nhìn lại bản thân mình, xem điều mình thật sự phải ăn năn hối cải là gì, xem Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời Mẹ đã cháy lòng biết bao khi làm ăn năn hối cải vô số người nhà Siôn trên toàn thế giới và chăm lo cho từng mỗi một linh hồn, xem liệu giây phút này dù có gặp ngay Đức Chúa Trời Cha, thì liệu chúng ta có thể đến trước Ngài với hình ảnh được tôi luyện như vàng ròng mà không một chút xấu hổ nào không.

 Hãy ghi khắc sâu sắc trong lòng hai chữ ăn năn hối cải, và hãy đến trước Đức Chúa Trời bằng tâm linh ăn năn hối cải chân thật.
Tất thảy mọi người nhà Siôn trên toàn thế giới phải đạt được sự ăn năn hối cải. Khi chúng ta đạt được sự ăn năn hối cải trọn vẹn thì chỉ trong vòng một ngày, hàng nghìn người, hàng vạn người có thể trở về được. Trái là kết quả của sự ăn năn hối cải. Như Đức Chúa Trời đã phán rằng hãy kết ‘quả xứng đáng với sự ăn năn”, chúng ta phải ăn năn hối cải thật sự thì mới có thể kết quả xứng đáng được.

Khi chúng ta quyết cứu sống từng một linh hồn bằng tấm lòng ăn năn hối cải, thì các nguyên vật liệu đền thánh chân thật và chân thành mới được nhóm lại, và đền thánh trên trời sẽ có thể được hoàn công. Giống như công việc vào thời đại Môise, sau khi nguyên vật liệu đền thờ đã được gom đủ cả rồi, thì cho dù có mang đến vô số nguyên vật liệu đến đâu đi chăng nữa cũng chẳng ích gì. Mong tất thảy các anh chị em hãy ăn năn hối cải ngay từ bản thân mình với tấm lòng khẩn thiết muốn cứu rỗi linh hồn bằng cách làm ăn năn hối cải từng một linh hồn trong khoảng thời gian cơ hội có thể ăn năn hối cải, và đều đồng tham vào cuộc vận động truyền đạo của Đức Chúa Trời, làm ăn năn hối cải cả những người khác chứ không chỉ riêng bản thân mình. Mong tất thảy các anh chị em hãy sống cuộc sống đẹp đẽ và ân huệ, sốt sắng ăn năn hối cải và siêng năng truyền đạo


GIÁ PHẢI TRẢ

GIÁ PHẢI TRẢ


       Sau khi nghe giải thích về việc tin Chúa Cứu Thế Giê-xu thì được tha thứ và được cứu rỗi linh hồn, nhiều người nói rằng: "Thế thì dễ quá".
Một nhà truyền bá Tin Lành kể chuyện một công nhân hầm mõ đến gặp ông và nói rằng:
- Tôi không tin rằng tôi chỉ cầu nguyện xin Chúa tha tội là Ngài tha ngay. Tôi nghĩ như thế là giá quá rẻ!
Nhà truyền đạo hỏi:
- Thế hôm nay anh có đi làm không?
- Có chứ! Tôi vừa mới ở dưới mỏ lên đây.
- Làm sao anh ra khỏi mỏ?
Tôi lên bằng thang máy.
- Anh có trả tiền không?
Dĩ nhiên là không, tôi chỉ cần bước vào thang lồng và bấm nút điện và thang chạy lên ngay.
- Thế anh có sợ khi bước vào thang lồng ấy không? Anh có nghĩ rằng chỉ bước vào, bấm nút, mà từ dưới hầm sâu lên tận đây là quá giản dị, quá rẻ hay không?
- Không! Dễ đối với tôi bây giờ chớ công ty mỏ đã phải trả không biết bao nhiêu tiền mới đặt được chiếc thang lồng như thế đó!
Nói xong, anh công nhân hầm mỏ bỗng hiểu ngay việc tin Chúa Giê-xu được tha tội cũng tương tự như thế. Đối với anh và đối với mọingười, chỉ cần tin là được. Nhưng Chúa Cứu Thế đã trả một giá rất đắt.Giá ấy chính là sinh mạng của Ngài. (TTPST).


ĐỔ NƯỚC MẮT CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHƯA ĐƯỢC CỨU

ĐỔ NƯỚC MẮT CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHƯA ĐƯỢC CỨU

Thomas Johannes Bach, nhà truyền giáo người Đan Mạch đã làm giáo sĩ tiền phong ở Nam Mỹ và là chủ tịch Hội truyền giáo The Evangelical Mission, có kể câu chuyện thật sau đây:
Lúc đó Bach còn là một sinh viên kỹ sư ở Copenhagen, thủ đô Đan Mạch. Khi đang đi dạo phố, Bach thấy một cậu bé người gầy ốm, cầm đưa biếu một truyền đạo đơn Phúc âm, và nói:
Xin ông cầm lấy giấy này, trong đó có một sứ điệp cho ông!
Bách xẳng xớm trả lời:
Sứ điệp sứ điệp gì? Tại sao các người cứ đem tôn giáo quấy rầy người khác vậy? Tôi có thể tự lo, đâu cần gì đến các người giúp đỡ!
Mặc dù Bach tỏ thái độ giận dữ, cậu bé vẫn đứng yên và vẫn đưa tờ truyền đạo đơn lên. Bach chụp lấy tờ giấy bóp lại và bỏ vào túi. Mặc dù còn đang giận, Bach đã bắt đầu ngạc nhiên vì thái độ yên lặng bình tĩnh của cậu bé, nên để mắt theo dõi xem thử cậu làm gì. Lúc đó, cậu bé bước vào bên đường, đứng dưới cổng một nhà gần đó, vòng hai tay và cúi đầu cầu nguyện, hai dòng nước mắt chảy dài trên gò má. Bach không thể hiểu được tại sao cậu bé có thể yêu thương một người cộc cằn, thiếu lịch sự như anh ta, yêu thương đến nỗi có thể đổ nước mắt cầu thay cho anh ta. Bach về nhà lấy tờ truyền đơn ra đọc và đã tiếp nhận Chúa, rồi dâng hiến đời sống mình cho Chúa, để được Chúa dùng đem Phúc âm đến cho hàng trăm ngàn người ở Nam Mỹ và nhiều quốc gia khác. (NT&PPTBPÂ).


Sự kính sợ Đức Chúa Trời và đường lối của Ngài

Sự kính sợ Đức Chúa Trời và đường lối của Ngài


Sự kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan; Phàm kẻ nào giữ theo điều răn Ngài có trí hiểu. Sự ngợi khen Ngài còn đến đời đời (Thi Thiên 111:10)

Hỡi Chúa, xin hãy chỉ dạy cho tôi biết đường lối Ngài, Thì tôi sẽ đi theo sự chân thật của Ngài; Xin khiến tôi một lòng kính sợ danh Ngài (Thi Thiên 86:11)

Phước cho người nào kính sợ Chúa, Đi trong đường lối Ngài! Vì ngươi sẽ hưởng thành quả của tay mình, Được phước và may mắn (Thi Thiên 128:1-2)

Thiên sứ Chúa đóng lại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, Và giải cứu họ (Thi Thiên 34:7) Hỡi các thánh của Chúa, hãy kính sợ Ngài; Vì kẻ nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết (Thi Thiên 34:9)

Hỡi các con, hãy đến nghe ta; Ta sẽ dạy các con sự kính sợ Chúa (Thi Thiên 34:11)
-----

Sự kính sợ Chúa là khởi đầu của mọi sự khôn ngoan, người không học nhiều nhưng kính sợ Chúa thì người đó còn khôn ngoan hơn người cả chục bằng tiến sĩ nhưng không kính sợ và tin Chúa.
Nếu kính sợ Chúa thì phải đi theo con đường của Chúa. Chúng ta không thể ép Ngài đi theo con đường chúng ta và chúc phước cho chúng ta mãi được. Phước cho người nào kính sợ Chúa, Đi trong đường lối Ngài! Xin Chúa cho chúng ta biết con đường của Ngài.
Chúng ta hãy đến với Chúa, gần gũi Ngài hơn, Ngài sẽ dạy chúng ta biết kính sợ Ngài. Khi thấy con cọp trên TV, không ai sợ cả. Thấy con cọp trong sở thú thì sợ hơn chút xíu. Nhưng nếu đứng trước con cọp ở trong rừng thì khác. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ nghe về Chúa nhưng xa cách Ngài, chúng ta có thể làm theo mọi điều mình muốn và đi theo con đường của mình, mặc kệ Chúa nghĩ gì. Nhưng nếu gần Chúa, tự nhiên biết sợ Ngài thôi. Xin Chúa dạy chúng ta biết kính sợ Ngài.


Chứa Của Cải Trên Trời

Chứa Của Cải Trên Trời
Ma-thi-ơ 6:19-21
Một người bị mất tài sản với hai lý do thường thấy. Thứ nhất là của cải đó bị hư hại, không còn sử dụng được nữa, và thứ hai là khi bị người khác chiếm đoạt.
Phân đoạn Kinh thánh nầy, Chúa Jêsus dạy chúng ta về của cải dưới đất, của cải ở trong thiên đàng và cách sống mà chúng ta cần có đối với hai loại của cải nầy.
Của cải dưới đất dễ bị sâu mối, ten rét làm hư và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Ngài muốn nói của cải vật chất ở trên đời sẽ mau chóng mất đi, không tồn tại lâu dài. Hoặc nó bị hư đi, hoặc bị ai đó cướp đoạt mất. Người Việt mình cũng có câu: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời.”
Con người phải cực nhọc, đổ mồ hôi làm ra của cải từ, nhưng có thể chỉ vài phút đồng hồ, vài hôm hay vài năm, dài lắm là sau khi họ qua đời, của cải họ cố sức làm ra sẽ không còn thuộc về họ nữa.
Chúa Jêsus dùng hình ảnh của cải chứa trên thiên đàng để đối sánh với của cải trên mặt đất. Ngài nói rằng trên thiên đàng thì không có sâu mối, ten rét và kẻ trộm, nên của cải chứa trên thiên đàng sẽ còn lại đời đời.
Đừng chất chứa của cải ở dưới đất.
Chúa Jêsus dạy: “Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy”(19).
Của cải ở dười đất là mọi thứ của cải được con người chúng ta làm ra như tiền bạc, nhà cửa, phương tiện, danh tiếng, bằng cấp, quyền thế…Vì là con người, chúng ta cần dùng của cải để đáp ứng những nhu cầu của thể xác và tinh thần, như ăn mặc, cư trú, giải trí, tiêu xài, chia xẻ cho người khác kể cả việc dâng hiến.
Vì vậy mà chúng ta cần phải làm việc bằng chân tay lẫn trí óc để tạo ra của cải đáp ứng những nhu cầu nầy. Kinh thánh dạy: “Hãy siêng năng, mà chớ làm biếng.”(Rôma 12:11). Người Việt mình cũng có câu: “Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói.”
Vậy tại sao Chúa bảo chúng ta: “Các ngươi chớ của cải ở dưới đất.”(19).
Trong tiếng Hylạp, chữ “chứa” (đe-sau-rí-jồ) mang nghĩa là “chất chứa”, “cất trữ”, như hình ảnh người nông dân cất trữ một lượng lớn của cải vào trong 1 nhà kho.
Chúa Jêsus không hàm ý dạy con người không được dự trữ lương thực, của cải để phòng trừ những năm thất mùa, nhưng Ngài muốn dạy con người cần phải biết sống thỏa lòng khi đủ ăn, đủ mặc, để còn có thời gian mà lo sửa soạn linh hồn mình cho ngày gặp Đức Chúa Trời. Ngài muốn chúng ta cũng đừng có chỉ biết nghĩ đến bản thân mình thôi, mà còn phải nghĩ đến những người chung quanh mình nữa.
Người chỉ lo nghĩ đến một việc, đó là làm sao cho của cải của mình thêm dư dật, chất chứa đầy kho nầy, ta xây thêm kho khác. Trọn thời gian cuộc đời của người chỉ nghĩ đến cơm áo, gạo tiền, nhà cửa, xe cộ…và lo thụ hưởng những của cải mà mình chất chứa khổng lồ mà mình đã làm ra. Người như vậy sẽ không còn có thời gian để lo cho linh hồn của mình, của gia đình mình, người chung quanh mình nữa, trong khi linh hồn có giá trị lớn hơn thể xác là vô cùng.
Rồi đến một ngày, người qua đời, Đức Chúa Trời đòi linh hồn người lại. Người chẳng những không còn giữ được cho mình một đồng xu, mà linh hồn người phải đi vào hỏa ngục. Vì khi người còn sống, người không có thời gian để sửa soạn linh hồn mình mà gặp Đức Chúa Trời (A-mốt 4:12).
Chúa Jêsus dạy: “Lạc đà chui qua lỗ kim (may) còn dễ hơn một người giàu vào nước Đức Chúa Trời.”(Mathiơ 19:24).
Nếu trên mặt đất, con người sống mãi mãi, không chết, thì con người hãy cứ dành trọn thời gian cho việc làm ra của cải và hưởng thụ nó. Nhưng cuộc đời con người quá sức ngắn ngũi, 100 trở lại rồi phải lìa đời. Sau khi qua đời, con người sẽ bị Đức Chúa Trời phán xét. Người có Chúa Thánh Linh trong lòng sẽ được vào thiên đàng, còn người không có Chúa Thánh Linh trong lòng sẽ bị đi vào hố lửa vĩnh cửu.
Ngươi chỉ nghĩ đến việc làm giàu, dành hết thời gian cho việc chất chứa thật nhiều của cải dưới đất, thì lòng họ chỉ nghĩ đến của cải, mà không nghĩ đến Đức Chúa Trời, linh hồn của họ và thiên đàng. Chúa Jêsus nói: “Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó.”(21).
Họ không có Chúa Thánh Linh, họ chỉ có của cải. Khi họ qua đời, họ trắng tay. Của cải cũng không còn, mà sự sống đời đời của linh hồn cũng không có. Họ đành chấp nhận sự hư mất mãi mãi.
Phải chứa của cải ở trên trời.
Chúa Jêsus dạy: “Nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch, khoét vách mà lấy.”(2).
Những điều mà Đức Chúa Trời sẽ ban cho người tin Chúa ở trên thiên đàng là quyền công dân thiên quốc, thân thể vinh hiển giống Chúa Jêsus, nước thiên đàng diệu kỳ, xinh đẹp, và người thân tin Chúa của họ cùng được ở nơi đó. Không có một của cải nào ở trần gian được đem vào thiên đàng.
Vậy, Chúa Jêsus bảo chúng ta phải chứa của cải trên thiên đàng, nghĩa là chúng ta phải làm gì?
Để chứa của cải chứa ở trên trời, thì trước hết chúng ta phải làm ra của cải ngay ở dưới đất nầy. Không có của cải ở dưới đất, chúng ta sẽ lấy đâu ra của cải mà chứa ở trên trời. Câu nói của Chúa Jêsus ở đây cho thấy Ngài không hề phủ nhận việc con người làm ra của cải cho chính mình, gia đình và xã hội. Nhưng Ngài muốn dạy ở chỗ là mục đích của việc tạo ra của cải không phải là chỉ để thụ hưởng cho bản thân, nhưng mục đích là để làm những công việc thuộc về thiên đàng.
Khi chúng ta tạo ra của cải với mục đích để thụ hưởng cho xác thịt, hay để đầu tư vào thiên đàng thì hai lối sống nầy sẽ khác nhau.
Với mục đích để thụ hưởng xác thịt, thì nhiều khi công việc tạo nên của cải đó sẽ bất chấp vấn đề đạo đức, và của cải đó chỉ dùng theo ý con người và giá trị còn lại của nó sẽ sớm mất đi. Nhưng người làm ra của cải nhằm mục đích đầu tư vào thiên đàng, thì công việc tạo ra của cải luôn là công việc vừa ý Chúa, của cải tạo ra sẽ được họ sử dụng theo ý của Ngài và giá trị của của cải đó sẽ mãi còn đó.
Chúng ta ăn cơm mình làm ra để sống khỏe mạnh mà thờ phượng Chúa và hầu việc Chúa trong mọi cách, tức là chúng ta đang chứa của cải mình trên trời. Chúng ta dùng của cải mình nuôi dưỡng con cái, để mục đích sau nầy chúng trở nên những người có ích cho Chúa, là chúng ta đang chứa của cải trên trời. Khi chúng ta dùng tiền bạc của mình để mua phương tiện, trả lộ phí cho việc đi đến Hội thánh để thờ phượng Chúa, hay dùng tiền của để mua tài liệu bồi linh cho chính mình, đóng tiền học trường Kinh thánh, lớp bồi dưỡng thuộc linh…cũng là lúc chúng ta đang chứa của cải trên thiên đàng.
Khi chúng ta dùng của cải mình dâng hiến cho Hội thánh để làm công việc Chúa, khi chúng ta dùng tiền của mình là ra mà giúp đỡ những người nghèo đói, bất hạnh, để danh Chúa được ngợi khen giữa vòng dân ngoại, cũng là việc chúng ta chứa của cải mình ở trên trời…
Nói cách khác, mọi của cải chúng ta làm ra với mục đích không dùng cho việc hưởng thụ tội lỗi, nhưng sử dụng để làm vinh hiển danh Chúa, và mở rộng vương quốc của Ngài trên đất, đó chính là việc chúng ta chứa của cải mình trên trời vậy.
Lời kết:

Người thuộc về đất thì chỉ lo nghĩ và phấn đấu làm mọi việc, tạo ra của cải nhằm mục đích phục vụ cho thể xác và tinh thần của con người trên mặt đất. Họ nghĩ rằng ở thế giới này, nhu cầu hưởng thụ, thỏa mãn xác thịt là trên hết. Họ không tin có Đức Chúa Trời, không có thiên đàng, và không cần phải chuẩn bị linh hồn để bị chịu đoán xét. Chết đã hay.
Tất cả hướng tới đồng tiền. Học cũng vì tiền, làm việc cũng vì tiền, tìm sự nỗi danh hay tìm chức quyền cũng vì tiền, cứu người cũng vì tiền…Rồi một ngày họ chết, tiền họ mất, và không có ai cứu linh hồn của họ. Họ phải đi vào hố lửa vì linh hồn họ chứa đầy tội lỗi, thân thể họ gây nhiều việc xấu xa. Đó là người chứa của cải mình dưới đất.
Nhưng Công dân của thiên đàng sẽ làm mọi điều vì vương quốc của mình. Họ ý thức rằng đời trên đất là tạm bợ, chóng qua, cuộc sống trên đất là 1 giai đoạn ngắn của quá trình chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đang hạnh phúc. Vì vậy, mọi việc họ làm đều vì Danh Chúa mà làm.
Mọi của cải họ làm ra, dầu là 1 đồng, họ cũng không dùng cho việc tội lỗi, bèn là theo ý Chúa mà sử dụng. Của cải họ có, đều dùng cho mục đích: vì sự vinh hiển của Chúa, và vì mọi người cần được cứu rỗi. Đó là người chứa của cải mình ở trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn là người biết chứa của cải mình trên thiên đàng của Ngài, muốn thật hết lòng~!


Cõi đời đời ở đâu?

Sự vĩnh cửu hay cõi đời đời thách thức trí tưởng tượng của con người và khả năng hiểu biết của họ.

Nó không phải là một đối tượng, cũng không phải một nơi, nó không phải là một khoảng thời gian. Nó không có bắt đầu và cũng không có kết thúc. Tất cả mọi người từ Adam đến người cuối cùng sinh ra  đều sẽ vào trong cõi vĩnh cửu.


Từ “đời đời”  được sử dụng trong Ê-sai 57:15. Ở đây hàm ý rằng rằng Thiên Chúa sống vĩnh cửu. Ngài là đời đời, không có bắt đầu và không có kết thúc. Có thể nói điều này là: chỉ có Thiên Chúa ban cho con người sự khởi đầu nhưng linh hồn của họ không có kết thúc. Các quyển từ điển cũng đồng tình với Kinh Thánh rằng đời đời là một khoảng thời gian không có kết thúc. Điều này có nghĩa linh hồn đi qua sự chết và nó tồn tại đời đời.

Trong câu mở đầu của Kinh Thánh: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” (Sáng 1:1). Câu này ám chỉ đến sự sáng tạo thiên đàng, mặt đất và mọi vật ở trong đó (Cô-lô-se 1:16-17). Đức Chúa Trời đã ra lệnh cho tất cả những điều này tồn tại, rồi đến một ngày kia: “Các tầng trời sẽ biến đi trong tiếng vang rền, các nguyên tố sẽ bị tan chảy trong lửa, đất và mọi công trình trên đó đều sẽ bị thiêu hủy” (2 Phi-e-rơ 3:10).

Con người là một tạo vật của thời gian trong ý nghĩa con người sử dụng thời gian và tùy thuộc vào đó. Cuộc sống của con người được kiểm soát bởi thời gian. Thời gian tuy quan trọng là thế nhưng nó không có mối liên hệ nào đến cõi đời đời. Cõi đời đời là duy nhất và không gì có thể so sánh được. Dĩ nhiên nó không thể đo lường bằng độ dài, chiều ngang, cao hay sâu. Không có cơ hội để thay đổi những gì đã được thiết lập trong cõi đời đời mà con người đã chọn trong cuộc sống hiện tại. Nó vĩnh viễn, vô tận, bất diệt.

Trong tất cả các tạo vật, chỉ có con người được mặc vào một thân thể bất tử,  họ sẽ được chuyển tiếp từ thời gian hữu hạn  đi vào trong cõi đời đời. Con người là tạo vật được Chúa hà hơi trở nên một loài sanh linh (Sáng 2:7) và sẽ sống vĩnh cửu giống như Đức Chúa Trời.

Khi kết thúc thời gian, cõi đời đời sẽ bày tỏ những điều lạ lùng, kỳ diệu mà chúng ta không thể hiểu được trong những ngày này. Khi Chúa trở lại “mọi mắt” sẽ trông thấy Ngài (Khải 1:7). Ngài sẽ ngồi trên ngôi và muôn dân sẽ bị xét đoán trước mặt Ngài (Ma-thi-ơ 25: 31-32; 2 Cô-rin-tô 5:10). Bấy giờ Đức Chúa Trời sẽ đoán xét mỗi người tùy theo công việc của họ (Khải 20:12-13). Những người hoài nghi nhận thấy điều này không thể xảy ra được. “Mọi mắt”có nghĩa là hàng tỉ người, những tạo vật trên đất và dưới biển, những người sống lại từ kẻ chết cũng như những người còn đang sống. Thật khó cho tâm trí con người để nghĩ rằng muôn dân sẽ bị kéo đến trước ngôi của Ngài để bị đoán xét. Những ai mà suy nghĩ rằng điều này không thể tin được phải ghi nhận rằng thời gian sẽ biến mất và cõi đời đời là không có giới hạn. Sự hạn chế của khoảng cách và thời gian của đời sống trên trái đất thì không có trong cõi đời đời.
  
Cõi đời đời theo như Kinh Thánh bày tỏ có 3 khía cạnh: sự phán xét, sự phân chia người công nghĩa và kẻ bất nghĩa và đời sống vĩnh cửu. Sự phán xét này là sự phán xét chung kết, sẽ không có kháng án hay phúc thẩm. Trong suốt cuộc đời của con người, Đức Chúa Trời đặt trước mặt họ sự lựa chọn giữa điều đúng và sai để đem họ vào trong mối liên hệ cá nhân phải lẽ với Đấng Sáng Tạo. Những ai mà không lưu ý đến sự chỉ dạy của Ngài, thì trong ngày chung cuộc họ sẽ bị kết tội và bị gởi đi tới  một nơi bị trừng phạt đời đời. Những ai mà đã giao nộp đời sống của họ cho Đức Chúa Trời thì tội lỗi của họ có thể bị phán xét trước, còn những kẻ không chịu khuất phục đời sống mình cho Chúa thì tội lỗi sẽ đi theo họ tới ngày phán xét cuối cùng (1 Ti-mô-thê 5:24).

Sau sự phán xét mỗi người sẽ nhận được phần thưởng tùy theo bảng chấm công trong sách của Chúa, bao hàm tất cả những ai có tên trong Sách Sự Sống (Khải 20:12). Từ phần thưởng được dùng ở đây là để tưởng thưởng  cho những việc được làm ra khi còn ở trên đất, tốt hay xấu.

Trong cõi đời đời sẽ chỉ có hai loại người: được cứu và hư mất. Đức Chúa Trời sẽ phân loại con người căn cứ vào sự tiếp nhận hay từ chối kế hoạch sự cứu rỗi của Ngài khi họ còn sống trên đất. Chỉ có hai nơi đến đời đời cho con người: thiên đàng cho những người được cứu và địa ngục cho những người hư mất.

Đối với những ai mà tên của họ đã được ghi vào trong Sách sự sống, Đấng thẩm phán chung cuộc sẽ nói: “Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma-thi-ơ 25:34). Còn với những kẻ không có tên trong sách sự sống, Đấng Phán Xét sẽ nói: “Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó” (Ma-thi-ơ 25:41).

Những lời này sẽ gây kinh ngạc cho những kẻ bị loại bỏ và những điều khác đang chờ đợi họ. Có những người đi vào trong cõi đời đời xuyên qua sự chết nhưng đã sửa soạn để gặp Đức Chúa Trời, họ sẽ chết với sự bảo đảm trong lòng của họ là họ sẽ được ở với Ngài trong cõi đời đời. Họ hy vọng được chào đón bằng những lời này: “Hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi”.

Cũng có những người mà trong đời sống đương thời của họ, họ sẵn sàng cho án phạt và không có ý định gặp Đức Chúa Trời, họ sẽ lo lắng và sợ hãi khi đứng trước ngai phán xét (Hê-bơ-rơ 10:27). Trong ngày đó họ sẽ kêu cầu các núi và đá: “Hãy rơi xuống chận trên chúng tôi đặng tránh khỏi mặt của Đấng ngự trên ngôi và khỏi cơn giận của Chiên Con!” (Khải 6:16)

Đám đông người này cũng sẽ bao gồm những con người thất vọng trước ngai phán xét: “Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao?  Khi ấy, ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta!” (Ma-thi-ơ 7:22-23).

Toàn bộ cõi đời đời chuẩn bị cho sự bất tử của con người đã không được đề cập chi tiết trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, Chúa Jesus đã phán dạy về điều này. Ngài phán  rằng kẻ nào thắng Ngài sẽ ban cho người ấy được ngồi với Ngài, trên ngai của Ngài (Khải 3:21). Những thánh đồ đắc thắng này được mặc áo choàng trắng và họ sẽ không cần thêm bất cứ nhu cầu cá nhân nào trong cõi vĩnh hằng (Khải 7:14-17). Họ sẽ vui hưởng phước hạnh đời đời được sửa soạn cho những linh hồn bất tử.

Đối với những ai nghe lời khiển trách: “Hãy lui ra khỏi ta”. Lúc đó họ sẽ bị ném ra bên ngoài nơi tối tăm có khóc lóc và nghiến răng (Ma-thi-ơ 8:12) đi vào trong lửa không bao giờ dứt ở địa ngục (Mác 9:43). Họ sẽ bị muối trong hồ lửa và lưu huỳnh (Khải 20:15; 21:8). Những linh hồn này trong tinh thần vẫn còn có cảm giác nhận biết người khác (Lu-ca 16:23). Họ sẽ cảm biết sự thống khổ của lửa địa ngục (câu 24); Họ sẽ hiểu ra vấn đề (câu 26), và họ sẽ nhớ lại cuộc sống trên mặt đất (câu 28). Nhưng rõ ràng với những kẻ hư mất họ sẽ không có bất kỳ một phúc lợi nào trong cõi đời đời.

Trong cõi đời đời, Satan bị đánh bại hoàn toàn, và một lệnh trừng phạt đời đời được đưa ra sẽ trở nên vô cùng khốc liệt cho nó. Vì mục đích này địa ngục đã được chuẩn bị (Ma-thi-ơ 25:41). Thật là khủng khiếp rùng rợn để chia sẻ về một nơi ở đời đời đau khổ cùng cực, gớm ghiếc nhất được dành sẵn cho kẻ hư mất và những tà linh gian ác!

Khía cạnh thứ ba của cõi đời đời là tình trạng của cõi đời đời thì vượt quá sự hiểu biết của con người. Tâm trí con người bị giới hạn cho sự khởi đầu và kết thúc. Vì thế con người phải tùy thuộc vào sự chân lý trong Lời của Đức Chúa Trời. Ngài là tác giả của vạn vật và cũng là tác giả của cõi đời đời.

Nếu một con chim nhặt lên một hạt cát và mang nó đến mặt trăng, và trong cách đó nó mang đi rất xa trái đất.  Cũng vậy, cõi đời đời cũng chỉ mới bắt đầu, và nó chưa gần đến ngày kết thúc. Đối với những kẻ gian ác điều này có thể là ý tưởng đau buồn nhất. Tuy nhiên đối với những người công nghĩa là những người sẽ thừa hưởng phước hạnh thiên đàng với Đức Chúa Trời và với những thiên sứ thánh, họ hoan nghênh ý tưởng này.

Hiện nay, trong khi thời điểm cuối cùng chưa đến, số phận đời đời của chúng ta có thể được quyết định vào lúc này.
Bạn đã sẵn sàng cho cõi đời đời? Câu hỏi này đòi hỏi chính bạn phải trả lời trong đời sống thực tế. Hôm nay là thời gian để chuẩn bị cho cõi đời đời.

Một sự chuẩn bị cho ngày hội ngộ lớn  cuối cùng là tiếp nhận Chúa Jesus Christ làm  Cứu Chúa của bạn. Chính Ngài đã chết trên đồi Gô-gô-tha vì tội lỗi  của loài người và đã sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta (Rô-ma 4:25). Sự tiếp nhận này hơn cả một quyết định của lý trí; Nó là vấn đề của tấm lòng, chính là hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời. Điều này thách thức những môn đệ của Chúa đồng bước đi với Ngài, vâng phục sự dạy dỗ của Ngài và được dẫn dắt bởi Đức Thánh Linh.

Không tiếp nhận Đấng Christ sẽ sản sinh ra hệ quả là bị trục xuất khỏi hiện diện của Đức Chúa Trời. Cuộc sống có nhiều bất trắc, sự chết là chắc chắn và cõi đời đời thì vô hạn không thể trì hoãn cho quyết định của bạn hôm nay. Lời Đức Chúa Trời phải được tiếp nhận ngay hôm nay.

Bạn sẽ đi vào cõi đời đời nào?

Cõi đời đời! Ở đâu? Nó lơ lửng trong không khí.
Ở giữa những tiếng kêu la ầm ỉ, hay im lặng, nó từng ở đó.
Câu hỏi này rất nghiêm túc: Cõi đời đời! Ở đâu?
Bạn chọn sự cứu chuộc trong vinh quang hay quỉ sứ trong nỗi đau tuyệt vọng!
Và một câu hỏi khác: Cõi đời đời! Ở đâu?

Cõi đời đời! Ở đâu? Ồ, Cõi đời đời! Ở đâu?
Hỡi các bạn đừng ngủ, có thể nào không tiếp nhận sự sẻ chia này!
Cho đến khi bạn trả lời câu hỏi:
Cõi đời đời! Ở đâu?

NHV SUU TAM


Bộ phim cuộc đời bạn

Bạn nhìn thấy ai trong gương hàng ngày?
Bạn nhìn thấy một con người bình thường, với những khó khăn chồng chất cần giải quyết, với một cuộc đời chỉ mong giành giật để tồn tại?


Bạn nhìn thấy mình chỉ như một giọt nước trong cả một biển người? Như một cây nhỏ nhoi trong rừng cây, và bạn cần phải tranh chấp để giành được chỗ đứng của mình dưới mặt trời?

Hay là bạn nhìn thấy mình như một cái đinh ốc trong cả bộ máy lớn của xã hội đang quay cuồng, cũng có ai đó cần đến bạn, nhưng hoàn toàn với mục đích lợi dụng, họ chỉ chơi với bạn khi bạn còn có lợi cho họ mà thôi?

Hay bạn thậm chí còn không muốn nhìn vào gương nữa? Vì nghĩ rằng không ai quan tâm đến bạn, cho nên bạn cũng còn không quan tâm lắm đến chính mình.

Có những con người cho rằng họ chính là công việc họ làm. Họ làm giám đốc, nên họ là ông giám đốc, và cư xử như một ông giám đốc theo kiểu mẫu thế gian. Họ là người đi chợ, nên họ cũng sống theo kiểu chợ búa. Họ là một công nhân trong nhà máy, cho nên họ cũng chỉ sống như là một cái ốc trong bộ máy.

Trong mọi cách nhìn bản thân sai lầm đó con người đánh mất dần tính cách cá nhân của mình.

Khi chúng ta nghĩ mình chỉ có những số phận tầm thường, thì ta cũng từ chối không mơ ước nữa. Và lửa trong ta tắt, những ước mơ ta chết đi, ngay cả khi tim ta vẫn còn đập trong lồng ngực.

Nhưng Tin lành mà ngày hôm nay bạn nghe thấy lại đem cho bạn một cái gì hoàn toàn khác. Đó là sự thật về bạn. Bạn là tạo vật của Đức Chúa Trời, là tác phẩm của bàn tay Ngài tạo ra.

Đức Chúa Trời là tác giả thiên tài, cho nên bất cứ tác phẩm nào của Ngài cũng là một tuyệt tác không bao giờ lặp lại. Có nghĩa là bạn cũng vô cùng đặc biệt. Từ trước cho đến giờ không có ai giống bạn, và sau này cũng không có nữa.

Mọi tạo vật của Chúa đều tốt lành cả, và bạn cũng đã được tạo nên với một mục đích tốt lành.
"Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy; từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi.
Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi, quen biết các đường lối tôi.
Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi, kìa hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã biết trọn hết rồi."
(Thi thiên 139:2-4)

Mắt của Chúa luôn dõi theo bạn, Ngài chưa bao giờ thờ ơ với số phận của bạn. Mặc dù bạn có sống ở giữa biển người, Ngài vẫn nhận ra bạn, quen thuộc từng lời ăn tiếng nói, từng đường đi nước bước của bạn nữa. Cũng như các nhân vật chính trong các bộ phim, họ không thể lẫn đi đâu được dù đi dạo trong đám đông, họ bao giờ cũng được đạo diễn quay cận cảnh. Bạn luôn luôn là nhân vật chính của Đức Chúa Trời trong bộ phim đời bạn. Không thể có ai đóng thay được bạn vai chính đó. Nếu bạn từ chối, bộ phim sẽ không thành được.

Có thể bạn nghĩ số phận đó không phải dành cho người thường như bạn. Bạn nghĩ Đức Chúa Trời có lẽ chỉ quan tâm sử dụng những người đặc biệt có tài, có điều kiện sống phù hợp, có vẻ ngoài dễ coi... mà thôi. Nhưng đã có bao giờ bạn nghĩ đến chuyện này chưa, là các minh tinh màn bạc không phải khi sinh ra đã là ngôi sao được mọi người công nhận. Các con người - ngôi sao điện ảnh xuất hiện được là bởi vì có những bộ phim - ngôi sao, là những bộ phim có một kịch bản hay, và có một đạo diễn phim tuyệt vời. Phần của họ (các diễn viên) chỉ là đóng vai hết lòng, hết sức mình có thể.

Và bây giờ tôi muốn báo cho bạn biết là Đức Chúa Trời cũng có một kế hoạch - kịch bản dành cho bộ phim kể về đời bạn, đó là những ý tưởng tuyệt vời về chuyện bạn có thể làm được bao nhiêu điều cùng với Ngài trong cuộc sống trên đất, có thể động chạm được đến biết bao nhiêu con người xung quanh bạn bằng những công việc tốt lành, để chính họ sẽ trầm trồ ngợi khen Chúa và cảm tạ Ngài vì cớ bạn.

"Vì chính Chúa nắn lên tấm thân tôi, dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi;
Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng; Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm.
Khi tôi được dựng nên trong nơi kín, chịu nắn lên cách tinh xảo tại nơi thấp của đất, thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa.
Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi; số các ngày định cho tôi, đã biên vào sổ Chúa trước khi chưa có một ngày nào trong các ngày ấy.
Hỡi Đức Chúa Trời, các tư tưởng Chúa quí báu cho tôi thay! Số các tư tưởng ấy thật lớn thay!
Nếu tôi muốn đếm các tư tưởng ấy, thì nhiều hơn cát, khi tôi tỉnh thức tôi còn ở cung Chúa."
(Thi thiên 139:13-18)

Bạn sinh ra là đúng thời điểm, và Đức Chúa Trời biết là thế gian xung quanh đang cần đến bạn vào đúng lúc này, đang cần đến chính khả năng thiên bẩm mà bạn đang có. Khi bạn bắt đầu tìm cách giúp đỡ mọi người, đem đến cho họ những gì họ mong mỏi tìm kiếm, đưa họ về với Đức Chúa Trời, bạn sẽ khám phá ra chúng vẫn tiềm ẩn trong bạn từ xưa.

Miễn là bạn hết lòng hoà mình vào với kế hoạch đó của Ngài, sống theo ý đồ huy hoàng của Ngài đã định sẵn trong lòng Ngài cho bạn.
Với Ngài, không thể có được một bộ phim dở hay là nhàm chán.

Tất nhiên chúng ta cũng biết là trong quãng đời của ta chưa có Chúa Jê-sus, ma quỉ cũng đã kịp phá hoại nhiều thứ: phá sức khoẻ bạn bằng các loại bệnh tật mà bạn đang có, xúi dục làm điều ác gây tổn thương tấm lòng bạn khiến nó trở nên chai cứng trước mọi sự, tấn công vào suy nghĩ của bạn khiến nó chỉ nhìn thấy điểm xấu và thất bại v.vv. Nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta là Chúa của sự sống lại, Ngài đã đến để cứu bạn, phục hồi thân thể, tâm hồn và trí óc của bạn.

"Nếu Đức Thánh Linh của Đấng làm cho Đức Chúa Jê-sus sống lại từ kẻ chết ở trong anh chị em, thì Đấng làm cho Đức Chúa Jê-sus Christ sống lại từ kẻ chết cũng sẽ nhờ Thánh Linh Ngài ở trong anh chị em mà khiến thân thể hay chết của anh chị em lại sống!" (Rô-ma 8:11)
Bạn cũng biết là không có bộ phim nào mà không có những tình huống gay cấn, khi khó khăn thử thách đến với nhân vật chính, nhưng qua đó ta càng thấy tính cách ưu tú của anh ta khi vượt qua mọi thử thách đó. Khi khó khăn thực sự đến, hoạn nạn, khốn cùng, đói khát, bệnh tật, bắt bớ, đe doạ, vũ lực,  dù cho nó có là gì đi chăng nữa, Đức Chúa Trời luôn ở cùng bạn để giúp bạn chiến thắng chúng. (Rô-ma 8:37-39)

Với Ngài, không thể có một bộ phim thất bại, mà là bộ phim với thắng lợi cuối cùng.

Đó là bộ phim kể về bạn, mà kịch bản của nó đã nằm trong lòng Đức Chúa Trời từ khi Ngài nắn lên bạn trong lòng mẹ.

Tôi không thể nói cho bạn được cụ thể nó là như thế nào, đó là việc riêng của bạn với Đức Chúa Trời. Khi bạn càng trò chuyện tâm sự nhiều với Chúa, và bước đi theo Ngài, Ngài sẽ càng tỏ rõ hơn cho bạn. Đơn giản là vì nếu bây giờ Ngài có tỏ cho bạn hết ngay một lúc thì chưa chắc bạn đã hiểu hết và nắm bắt được. Như Áp-ra-ham trước kia chỉ có một lời kêu gọi ban đầu chưa cụ thể từng chi tiết, nhưng khi ông bước đi theo tiếng gọi đó, thì cả kế hoạch vĩ đại của Đức Chúa Trời mới được sáng tỏ dần dần ra cho ông.

Hãy để phần đạo diễn cho Đức Chúa Trời, còn việc của chúng ta là hết sức làm đúng những gì Ngài đặt ra cho ta hôm nay - làm trọn vai trò của một nhân vật chính. Trong sách của Đức Chúa Trời đã có chép về bạn, hãy nghiên cứu nó và bạn sẽ tìm thấy mình trong đó.


MS Quoc Hung

Bí mật của sách tiên tri Đa-ni-ên

Bí mật của sách tiên tri Đa-ni-ên

Sách Đa-ni-ên này là một bằng chứng tuyệt vời, chứng tỏ Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng biết tất cả mọi việc sẽ xảy ra trong tương lai. Chỉ mình Đức Chúa Trời hằng sống mới có thể biết trước mọi sự. Ngoài Đức Chúa Trời hằng sống ra, ai có thể nói trước được thời gian từ vua Nê-bu-cát-nết-sa cho tới ngày nay, tức là lịch sử trong khoảng 2600 năm. Một số giai đoạn của lịch sử thậm chí được Đức Chúa Trời mô tả chi tiết, đã đưa đến nhiều tranh luận về sách Đa-ni-ên.
Thậm chí, một số người cho rằng, tất cả được viết sau khi đã xảy ra. Tuy nhiên, những điều tiên tri trong sách đã ứng nghiệm và sắp ứng nghiệm không phải là bí mật chính của sách Đa-ni-ên mà là sự trung tín của Đa-ni-ên. Bởi hết lòng trung tín với Đức Chúa Trời mà Ngài đã bày tỏ cho ông rất nhiều.
Bối cảnh của sách Đa-ni-ên là dân Israel bị lưu đày sang Ba-by-lôn. Trong những tù nhân ấy, vua Ba-by-lôn là Nê-bu-cát-nết-sa cho chọn những người trẻ tuổi  khôi ngô, khỏe mạnh, khôn ngoan để hầu hạ vua trong cung điện và cho học hỏi sự khôn ngoan và ngôn ngữ của Ba-by-lôn, đế chế lớn nhất trong lịch sử. Họ được cho ăn thức ăn của vua và uống rượu của vua uống. Đối với nhiều người thì đây là cơ hội rất tốt: không những không bị bán làm nô lệ mà còn được cho học hỏi nền văn minh của Ba-by-lôn, được thưởng thức sơn hào hải vị của vua và hầu hạ vua trong cung điện.

1)  Đa-ni-ên và ba người bạn quyết định giữ mình trong sạch cho Chúa (Đa-ni-ên chương 1)
Nhưng Đa-ni-ên và ba người bạn là Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria quyết định trong lòng là không để mình ô uế bởi thức ăn và đồ uống của vua nên xin được cho ăn rau và uống nước (Đa-ni-ên 1:10-12). Dù biết rõ quyế t định có thể dẫn đến cái chết, nhưng những cậu bé này, khoảng từ 15 tuổi trở xuống, quyết định trung thành với Đức Chúa Trời và giữ mình trong sạch cho Chúa. Cũng có nhiều người Do Thái được đưa vào cung vua, nhưng chỉ có 4 cậu bé này quyết lòng trung tín với Chúa. Bởi quyết định này mà Đa-ni-ên và ba người bạn đã làm Đức Chúa Trời rất đẹp lòng nên đã ban cho họ tri thức và khả năng thấu hiểu mọi thứ học thức và khôn ngoan.
Hiện nay, chúng ta đang ở trong thời Tân Ước, không phải giữ gìn các luật lệ bề ngoài nữa, được ăn mọi thức ăn. Nhưng chúng ta có ý thức giữ mình trong sạch cho Đức Chúa Trời và không để bị ô uế bởi những sự vui thú của thế gian này không? Giữa chúng ta và dân ngoại có sự khác biệt nào không? Tiếc là ngoài việc đi lễ ngày Chúa Nhật, thì dân Chúa cũng như dân ngoại: thờ thần tượng, quan hệ ngoài hôn nhân, tham vật chất, chia rẽ, chạy theo danh vọng, yêu những điều của thế gian... và lòng thì xa cách Chúa. Chúng ta nên nhớ rằng tuy chúng ta sống trong thế gian nhưng chúng ta không thuộc về thế gian mà thuộc về Đức Chúa Trời (Giăng 17:14). Chúa đã cảnh báo về điều này trong các câu Kinh Thánh sau:
Đừng yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì tình yêu của Cha chẳng ở trong người ấy“ (1.Giăng 2:15)
Hỡi bọn ngoại tình kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao? Cho nên, ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ thù của Đức Chúa Trời vậy“ (Gia-cơ 4:4)
Chúng ta hãy học ở bốn cậu bé kia, giành trọn cả trái tim cho Chúa, quyết lòng giữ mình trong sạch cho Chúa chúng ta dầu phải trả bất kỳ giá nào. Nhưng chắc chắn Chúa sẽ ở bên cạnh để giúp chúng ta trung tín với Ngài.
2) Sự trung tín của Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria (chương 3)
Trong sách Đa-ni-ên chương 3, vua Nê-bu-cát-nết-sa cho làm một bức tượng vàng lớn và bắt mọi người quỳ gối thờ lạy bức tượng này. Ai không sấp mình trước bức tượng thì bị quăng vào lò lửa hực. Lúc đó, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria đang làm quan ở tỉnh Ba-by-lôn, bị người ta phát hiện là không chịu quỳ trước bức tượng nên bị điệu đến trước vua. Vua nói nếu họ không chịu quỳ thì cũng sẽ bị quăng vào lò lửa, xem thần nào có thể cứu họ được không.
Câu trả lời của họ làm chúng ta phải khâm phục: „Hỡi Nê-bu-cát-nết-sa, chúng tôi không cần gì phải biện minh với vua về vấn đề này. Nầy, hỡi vua! Nếu Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc, có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực và thoát khỏi tay vua thì Ngài sẽ cứu . Nếu Ngài không cứu, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, và không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng“ (Đa-ni-ên 3:16-18). Câu này có nghĩa là nếu Đức Chúa Trời  muốn cứu thì Ngài sẽ cứu họ, nhưng nếu Ngài không cứu thì họ vẫn trung tín với Chúa, không quỳ trước bức tượng cho dù họ sẽ bị chết. Chúng ta có thể thấy là họ hoàn toàn vâng lời và trung tín với Chúa một cách vô điều kiện. Còn chúng ta thì đòi hỏi Chúa làm cái gì trước rồi mới nghe theo. Không phải trong Khải Huyền 2:10, Chúa đã nói „Hãy trung tín cho đến chết, rồi Ta sẽ ban cho ngươi mão triều thiên của sự sống“ sao?
3) Đa-ni-ên bị ném vào chuồng sư tử (chương 6)
Ở đầu chương 6, vua lập một trăm hai mươi quan trấn thủ, để chia nhau trị cả nước, và trên các quan này là ba quan thượng thư, trong đó có Đa-ni-ên. Vì trội hơn hai người kia, nên vua định lập Đa-ni-ên trên cả nước. Các quan ganh tỵ tìm cách kiện Đa-ni-ên nhưng không tìm thấy bất kỳ lỗi gì ở ông cả vì ông trung thành với vua, siêng năng và tận tâm với công việc. Nên họ mới bày mưu kế để hãm hại ông. Họ nói vua làm một chiếu chỉ là nếu trong ba mươi ngày nếu người nào cầu xin thần của mình thì bị ném vào chuồng sư tử (Đa-ni-ên 6:7)
Nếu nghe chiếu chỉ như vậy thì phản ứng của chúng ta sẽ ra sao? Ở câu 10, sau khi nghe chiếu chỉ xong, Đa-ni-ên về nhà vẫn như thường lệ một ngày ba lần quỳ gối, cầu nguyện tạ ơn Đức Chúa Trời và các cửa sổ thì mở hướng về Giê-ru-sa-lem. Thậm chí Đa-ni-ên cũng không cần phải đóng cửa sổ. Tuy trọng trách cao, tận tụy với công việc, nhưng ngày nào Đa-ni-ên cũng biệt riêng thời gian cho Chúa và cầu nguyện cho chương trình của Chúa, xin Chúa thương xót xây dựng lại Giê-ru-sa-lem, hình ảnh của Hội Thánh, và giải thoát dân Ngài khỏi cảnh tù đày. Sau khi chiếu chỉ thì lòng của Đa-ni-ên với Đức Chúa Trời và Giê-ru-sa-lem vẫn không đổi, các cánh cửa sổ vẫn mở hướng về Giê-ru-sa-lem.  Vì vậy các quan có chứng cớ để kiện cáo Đa-ni-ên trước mặt vua, và ông đã bị ném vào chuồng sư tử. Nhưng Đức Chúa Trời đã giải cứu ông.
4) Đa-ni-ên kiêng ăn, nài xin Chúa thương xót dân của Ngài (chương 9)
Qua sách Giê-rê-mi, Đa-ni-ên nhận biết được thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị hoang vu 70 năm (câu 2). Khi khoảng thời gian này sắp hết, Đa-ni-ên kiêng ăn, mặc áo gai, đội tro và hết lòng nài xin Chúa thương xót và tha thứ những tội lỗi và bất trung mà dân Chúa đã phạm, mở đường cho dân sự trở về xây dựng lại thành Giê-ru-sa-lem, để danh Đức Chúa Trời được vẻ vang tại đó.
Trong cả cuộc đời, từ lúc nhỏ tuổi đến lúc cao tuổi, Đa-ni-ên luôn trung thành với Đức Chúa Trời và hết lòng vì dân của Đức Chúa Trời. Qua đời sống của Đa-ni-ên và ba người bạn, Đức Chúa Trời đã được vinh hiển, danh Ngài được bày tỏ ra trong thế gian. Chính các vua lúc đó cũng nhận ra rằng Đức Chúa Trời của họ là Đức Chúa Trời của các thần, là Vua của các vua (Đa-ni-ên 2:47, 3:29, 4:34-37,...). Ngợi khen Chúa!
Các bạn trẻ, hãy như Đa-ni-ên và ba người  bạn, hãy làm một quyết định là trung thành với Chúa, giữ mình trong sạch cho Chúa, không để mình bị vẩn đục bởi thế gian này. Ai quyết lòng trung tín với Chúa thì Chúa sẽ ở bên cạnh để giúp người đó trung tín với Chúa. Không lẽ ở Việt Nam, Chúa không tìm được những người như họ sao?
Lạy Chúa, xin Chúa hãy vực dậy những người như Đa-ni-ên ở Việt Nam để danh Chúa được vinh hiển ở Việt Nam, để nước Chúa mau đến trên trái đất này và để ý muốn Ngài được nên. Amen


Bí mật của sự sống

Bí mật của sự sống

(Lời chứng của Khánh, người Việt)
Tôi lớn lên trong một gia đình không tôn giáo. Nhà tôi thờ ông bà theo truyền thống Việt Nam, và mẹ tôi thỉnh thoảng có đi chùa vào những dịp lễ tết như bao người khác. Riêng bản thân mình, tôi đã tin vào thuyết tiến hóa của Darwin mà tôi được học trong nhà trường và thích chủ nghĩa hư vô. Nghĩa là mọi thứ từ hư vô mà thành và rồi sẽ trở về lại với hư vô. Mặc dù đôi khi tôi thấy rằng, suy nghĩ đó làm cuộc sống này trở nên vô nghĩa thật, nhưng tôi cũng tìm gặp trong những tư tưởng triết học nổi tiếng, trong văn thơ, ca nhạc về thân phận cuộc sống và cả trong triết lý của Phật giáo những điều tương tự như mình nghĩ. Vì vậy, tôi đã cho rằng, đó là một suy nghĩ đúng đắn và „không bệnh“. Dựa trên đó, tôi đã tự đặt ra những mục tiêu cho cuộc đời mình trong công danh, sự nghiệp cũng như có những ước mơ, những hoài bão riêng cho bản thân, gia đình và xã hội.
Sau tốt nghiệp phổ thông trung học, tôi du học ở Đức khi vừa 19 tuổi. Sống một mình ở một đất nước mới lạ lẫm cả về văn hóa lẫn ngôn ngữ, tôi đã vấp phải không ít khó khăn. Nhưng sau 6 năm học ở đây, tôi vượt qua tất cả những khó khăn đó. Từ việc học, việc làm thêm cho đến bạn bè, ngôn ngữ, giao tiếp, mọi chuyện đều tốt đẹp. Cuối tuần tôi thường hay đi chơi với bạn và thấy cuộc sống mình khá vui vẻ, thoải mái.
Mùa thu 2008, khi tôi vừa ngưng việc thực tập thì một người bạn cũ đề nghị vào làm thêm ở công ty anh ta. Tôi đã nhận lời và công ty cũng nhận tôi vào làm. Ở đây tôi thường đi ăn trưa chung với mọi người. Trước khi ăn, tôi thường nghe những người này cầu nguyện Chúa Giêsu, và thấy hơi mắc cười. Họ cũng hay nhóm với nhau trong tuần và cầu nguyện, hát, cũng như nói với nhau về Đức Tin, những điều tôi không hiểu mấy. Lắm lúc tôi tự nói một mình: „Sao mà sùng đạo quá vậy!“. Tôi đã gặp nhiều bạn bè theo đạo Công Giáo, và họ đi nhà thờ vào cuối tuần, nhưng chưa thấy ai cầu nguyện như vậy cả. Mặc dù thấy hơi lạ, nhưng tôi tôn trọng những điều khác với bản thân mình. Và sự thật là những người bạn đó rất thân thiện và cởi mở. Lúc đó tôi đã nghĩ, họ sẽ là những người bạn hoàn hảo trừ việc họ hay nói về Chúa Giêsu và mời tôi đến những buổi nhóm của họ. Bởi vì về điều này, tôi không thích nghe và bàn luận gì cho lắm. Tôi đã nghĩ đơn giản rằng, cho dù có một Thượng Đế, và Thượng Đế đã một lần đến thế gian này dưới hình hài Chúa Giêsu đi nữa; thì đã sao, việc đó có liên quan gì đến tôi. Cuộc sống tôi đang suông sẻ, tốt đẹp, tôi chẳng cần biết Thượng Đế để làm gì cả.
Gần một năm trôi qua, khi chỉ còn hai tuần lễ nữa là tôi sẽ nghỉ làm ở công ty đó, người bạn tôi đã tỏ vẻ buồn vì tôi và nói với tôi rằng: „Rồi có thể tôi sẽ có một việc làm thật tốt và thành đạt trong cuộc sống, nhưng đến một ngày khi đứng trước sự thật tôi sẽ hối tiếc, nếu tôi bỏ qua cơ hội cứu được mình lúc này. Hãy tìm gặp Thượng Đế để được cứu ra khỏi tội lỗi và thừa hưởng sự sống đời đời. Thượng Đế là điều tốt đẹp và tuyệt vời nhất, hãy tìm gặp được Ngài để tận hưởng và chiêm ngưỡng. Hãy hành động ngay bây giờ, đừng đợi đến một dịp nào khác nữa. Có thể khi đó mọi chuyện đã trở nên quá muộn “. Thật lòng, tôi chẳng suy nghĩ gì mấy về lời nói đó, nhưng vì muốn giữ quan hệ tốt với bạn mình, tôi đã đưa ra một giao ước. Chỉ trong hai tuần cuối ở đó, tôi sẽ thử tìm Thượng Đế giả sử rằng Ngài tồn tại. Sau hai tuần, nếu tôi không thực sự „thấy“ Thượng Đế,  thì xin đề tài này chấm hết đối với tôi mà tình bạn vẫn tốt đẹp, đừng nghĩ gì vì tôi. Tôi không thể nào chỉ tin không không vào một điều gì đó được.
Và mỗi buổi sáng sau đó tôi dành ra khoảng 1 giờ đồng hồ để đến nhóm, cầu nguyện và ăn sáng chung với bạn bè ở đó. Một người bạn ở nhóm đã nói với tôi rằng: „Không thể tự mình có Đức Tin được, nó không giống như bạn cố gắng tin vào một điều gì đó. Đức Tin là một mối quan hệ sống với Thượng Đế, người đã tạo ra tất cả mọi thứ. Và con đường duy nhất, cho mối quan hệ sống đó, là: tin nhận và cầu nguyện Chúa Giêsu ban nó cho bạn“. Như trong Kinh Thánh, ở câu John 14:6, Chúa Giêsu đã nói: „Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha“. Tôi đã tạm cho là như vậy, và quyết định thực lòng cầu nguyện thử trong hai tuần lễ.
Sau tuần đầu tiên, tôi dần dần thấy trong mình lúc nào cũng vui vẻ cả. Một niềm vui rất nhẹ, lâng lâng, an lành, khó diễn tả bằng lời. Ban đầu tôi đã nghĩ rằng, có lẽ vì gặp nhiều người, nói chuyện thân thiện, dĩ nhiên là vậy thôi. Nhưng suy nghĩ đó không thuyết phục lắm vì niềm vui đó không bị mất đi, tâm trạng tôi vui và bình an liên tục hoài như vậy. Điều này là một điều lạ đầu tiên tôi được biết tới trong đời, vì thông thường, sau những cuộc vui chơi với bạn bè, tôi lại thấy mình trống rỗng.
Chỉ vài ngày sau đó, tôi đã thực sự thấy Thượng Đế; không phải bằng đôi mắt của mình, mà là qua linh hồn tôi nay đã sống lại nhờ tôi đã thực lòng kêu cầu Ngài vì điều đó. Trở về được với Thượng Đế là niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà tôi chưa bao giờ được biết. Trong tôi được lấp đầy bởi Thánh Linh, và đó cũng là Thượng Đế hay Chúa Giêsu. Ngày nay, tôi kinh nghiệm Thượng Đế trong cuộc sống hàng ngày của mình. Tôi làm những việc hàng ngày với Thượng Đế, trong tôi. Tôi đến trường đai học với Ngài, tôi nghe giảng với Ngài, tôi viết bài với Ngài  Càng ngày tôi càng nói với Ngài, cũng như nghe từ Ngài nhiều hơn. Ngài cũng đã giúp tôi bỏ thuốc lá chỉ trong vòng vài phút, điều mà trước đó tôi đã cố bỏ nhưng không được, và từ đó đến nay tôi đã không hút thêm một điếu thuốc nào nữa.
Thật vậy, nghe cứ như là một câu chuyện cổ tích ở thế kỷ 21, nhưng điều này hoàn toàn là sự thật. Thượng Đế, Chúa Giêsu ở ngay trong chúng ta, đó là một bí mật lớn nhất trên thế gian này. Bí mật bởi vì, tôi có nói bạn cũng không thấy được. Khi linh hồn mình chưa sống lại, chúng ta chỉ có thể thấy những điều trong tâm hồn mình (những suy nghĩ tương đối nối tiếp nhau, cảm xúc và ý muốn). Hãy tự mình tin nhận và kêu cầu Chúa Giêsu thì bạn sẽ được cứu, và thấy được sự thật. „Bởi vì, hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì được mở“ (Ma-thi-ơ 7:8). Amen.


Bí mật của Kinh Thánh

Bí mật của Kinh Thánh

Khi đến với Kinh Thánh, người ta thường mong được hiểu thêm gì đó về luật lệ, truyền thống, lịch sử, các nghi lễ,… Không, đó không phải là mục đích của Đức Chúa Trời khi Ngài ban Kinh Thánh cho loài người. Kinh Thánh là một quyển sách tuyệt vời, một quyển sách sống động, nó tường thuật lại những mẫu chuyện giữa con người với Đức Chúa Trời. Thật vậy, từ Cựu Ước đến Tân Ước, trải qua bao nhiêu thế hệ khác nhau, con người dù xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, có tuổi tác, dân tộc, văn hóa khác nhau, nhưng vẫn kinh nghiệm được Đức Chúa Trời một cách sống động. Đức Chúa Trời luôn hiện ra và nói chuyện với họ. Họ không chỉ tin Chúa mà họ quen có một mối quan hệ hai chiều với Đức Chúa Trời: Chúa nghe tiếng họ và họ nghe tiếng Chúa.
[b]Thời Cựu Ước[/b]
Trong thời Cựu Ước, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, Nô-ê, Đa-vít, Sa-lô-mon, Môi-se, Đa-ni-ên, Sa-mu-ên,… đều có mối quan hệ gần gũi với Chúa. Xin nêu một số ví dụ ở dưới.
Khi Áp-ra-ham còn đang ở thành Mê-sô-bô-ta-mi, ở giữa họ hàng của ông, thì Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra với ông. Không chỉ có Chúa Cha mà Chúa Giê-su cũng đã gặp gỡ ông và Áp-ra-ham đã nức lòng mừng rỡ khi thấy Chúa Giê-su (xem Giăng 8:56-58). Đức Chúa Trời bảo ông rời bỏ quê hương và bà con để đi đến nơi Ngài chỉ (xem Công Vụ. 7:2-8 ). Hãy tưởng tượng xem nếu bạn đang ở quê hương bạn, trong vòng họ hàng, thì một người lạ mặt bảo bạn phải rời bỏ gia đình, quê hương để đi theo người đó đến một xứ xa lạ thì bạn có đi không? Đức Chúa Trời đã phải hiện ra với Áp-ra-ham nhiều nên ông mới có thể tin tưởng và đi theo. Đặc biệt, Áp-ra-ham thân với Đức Chúa Trời đến nỗi Ngài không thể giấu ông điều Ngài định làm (Sáng Thế Ký 18:17). Nếu bạn gần gũi với Đức Chúa Trời, chắc chắn Ngài sẽ bày tỏ cho bạn biết những điều ẩn sâu trong lòng Ngài.
Vua Đa-vít cũng rất gần gũi Chúa, là một người rất hiểu lòng Đức Chúa Trời, biết Ngài muốn gì và là người đầu tiên muốn xây cho Đức Chúa Trời một đền thờ. Khi Đa-vít nói ý định này ra với Đức Chúa Trời, Ngài vui mừng đến nỗi hứa sẽ cho một hậu duệ của ông làm vua trị vì mãi mãi trên trái đất này. Người hậu duệ này chính là Chúa Giê-su Christ.
Câu chuyện của Môi-se cũng tuyệt vời. Ai cũng biết Đức Chúa Trời dùng ông để dẫn dân Chúa ra khỏi Ai Cập. Nhưng bạn có biết rằng Đức Chúa Trời rất thân với Môi-se, đã nói chuyện với Môi-se như một người nói chuyện với bạn của mình không? Chẳng phải trong Giăng 15:15, Chúa muốn xem chúng ta như là bạn của Ngài và muốn tỏ cho chúng ta biết những điều mà Ngài nghe từ Cha sao? Chúa không muốn chúng ta theo Chúa một cách mù quáng, mà muốn chúng ta thân mật với Ngài và nghe tiếng Ngài.
Chúa không chỉ hiện ra với người trưởng thành mà Ngài còn hiện ra với người nhỏ tuổi nữa. Cậu bé Sa-mu-ên được Chúa gọi ba lần trong đêm khuya, tưởng là thầy của mình gọi. Đến lần thứ tư, cậu thưa với Chúa rằng: „Xin hãy phán, kẻ tôi tớ Ngài đang nghe“ (1.Sa-mu-ên 3:10). Câu chuyện này đã vực dậy trong tôi một khao khát cháy bỏng lúc còn thơ ấu. Tôi khao khát được nghe tiếng Chúa như cậu bé Sa-mu-ên vậy. Nhiều đêm tôi nói với Chúa: „Chúa ơi, xin Chúa hãy gọi con như Ngài gọi Sa-mu-ên. Con muốn nghe được tiếng Ngài“. Qua câu chuyện Sa-mu-ên, tôi nhận ra được một điều rằng đằng sau các luật lệ, hình thức trong nhà thờ Công Giáo có ẩn chứa một điều thật: Chúa là Đấng sống và người ta có thể nghe tiếng Ngài lúc còn sống. Và tôi đã khát khao tìm kiếm điều này trên 20 năm. Khi đến được Hội Thánh đích thực của Ngài, tôi nghe được tiếng Chúa rất rõ và tôi rất hạnh phúc khi sống trong sự hiện diện của Đấng Tối Cao.
[b]Thời Tân Ước[/b]
Khi Chúa Giê-su đến thì con người có kinh nghiệm Đức Chúa Trời qua Ngài thật rõ. Lúc Ngài nói cũng là lúc Cha nói. Chúa Giê-su đã bày tỏ sự vinh hiển của Cha ra cho thế gian.
Nhưng sau khi Chúa Giê-su chịu chết và lên trời, Ngài vẫn tiếp tục hiện ra với các môn đệ và dẫn dắt họ thực hiện công việc của Ngài. Nhân vật chính trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ chính là Thánh Linh.
Ở Công Vụ Các Sứ Đồ chương 9, khi Sau-lơ, tên cũ của Phao-lô, dẫn người đi bắt bớ Hội Thánh thì Chúa Giê-su đã hiện ra với ông, ánh sáng rực rỡ từ trời bao lấy ông làm ông ngã ngựa té xuống đất và bị mù trong ba ngày. Phao-lô nghe tiếng Chúa: „Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ Ta?“. Sau đó Chúa lại hiện ra với A-na-nia, một môn đệ tầm thường, chỉ được nhắc đến một lần, sai ông làm cho Phao-lô sáng mắt và làm báp-tem cho Phao-lô. Lúc Chúa mới nói vậy thì A-na-nia nghi ngờ, hỏi Chúa có biết Sau-lơ đã làm hại biết bao thánh đồ tại Giê-ru-sa-lem và đang trên đường bắt bớ Hội Thánh không? Sau đó Chúa đã xác nhận lại ý Ngài cho A-na-nia rõ. Tuyệt phải không?
Chúa không chỉ hiện ra với môn đệ mà còn hiện ra với người trong dân ngoại nữa. Chúa đã hiện ra với Cọt-nây, người La Mã, nói ông cho người sang thành khác để mời Phi-e-rơ đến. Chắc hẳn Chúa phải cho Cọt-nây rõ biết địa chỉ nhà mà Phi-e-rơ đang ở tạm vì nếu không có địa chỉ thì làm sao tìm được Phi-e-rơ. Phương tiện đi lại thời đó khó khăn và lúc đó điện thoại cũng chưa được phát minh. Sau đó Chúa lại hiện ra với Phi-e-rơ, nói cho Phi-e-rơ biết rõ là Chúa sai họ đến gặp ông. Lúc đến nhà Cọt-nây thì bà con và bạn bè của Cọt-nây đã đợi sẵn. Phi-e-rơ chỉ cần chia sẻ một lát là hàng chục người ngoại được cứu và nhận được Thánh Linh. Nếu chúng ta được Chúa dẫn dắt và ban cho cánh cửa mở, chúng ta sẽ không tốn nhiều sức mà sẽ kết được nhiều quả cho Chúa. Ngoài ra Chúa còn hiện ra với Giăng, Phi-líp và với rất nhiều anh em khác nữa…
Vậy thời bây giờ thì sao? Con người không thể nghe được tiếng Chúa được nữa? Không phải như vậy đâu. Bây giờ vẫn còn có thể nghe tiếng Chúa được vì Chúa ở trong chúng ta, như Ngài đã sống trong các môn đệ sau khi Chúa lên trời. Trong Giăng 10, Chúa nói chiên Chúa sẽ nghe tiếng Chúa và quen tiếng Ngài. Các bạn trẻ, xin đừng xem những điều này là một câu nói suông, sáo rỗng mà hãy khao khát được nghe tiếng Chúa. Hãy kiên nhận xin Chúa cho bạn quen biết Ngài như Giăng 10:27 „Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta quen nó, và nó theo Ta“.
„Nhưng phước cho mắt các ngươi, vì thấy được; phước cho tai các ngươi, vì nghe được!“ (Ma-thi-ơ 13:16). Nguyện xin Chúa mở mắt, mở tai cho chúng ta để chúng ta không đi theo Ngài một cách mù quáng.