Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

I Ti-mô-thê 2:15

Hỏi & Đáp:
I Ti-mô-thê 2:15
Huỳnh Christian Timothy
Chú ý: Bạn có thể bấm vào từ ngữ Hy-lạp hoặc mã số Strong hoặc phiên âm của từ ngữ đó trong bài này để xem nghĩa trong tiếng Anh và nghe phát âm trên mạng. Bạn cần phải đang kết nối với Internet.
Hỏi:
Xin cho biết ý nghĩa của I Ti-mô-thê 2:15 “Dầu vậy, nếu đờn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhơn đẻ con mà được cứu rỗi.” Nếu đàn bà được cứu rỗi nhờ đẻ con thì không lẽ sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ không có giá trị cứu rỗi đàn bà? Và những phụ nữ không đẻ con sẽ không được sự cứu rỗi hay sao?
Đáp: Trước hết, chúng ta cần đặt câu Thánh Kinh nói trên vào trong văn mạch của nó, bắt đầu từ I Ti-mô- thê 2:9. Kế tiếp, chúng ta cần dịch lại câu 15 cho thật sát với nguyên ngữ Hy-lạp của Tân Ước. Sau cùng, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của thụ động từ “được cứu” và giới từ “qua” theo nguyên ngữ Hy-lạp của hai từ ngữ đó. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012 (http://tt2012.thanhkinhvietngu.net) đã sửa lại câu thứ 15 cho sát với nguyên ngữ của Tân Ước. Dưới đây là phân đoạn chúng ta cần đọc để hiểu ý nghĩa của I Ti-mô-thê 2:15: 9 Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và tâm trí tỉnh táo giồi mình, không dùng những kiểu tóc, vàng, châu ngọc và áo quần quý giá, 10 nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa. 11 Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. 12 Ta không cho phép đàn bà làm thầy, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng. 13 Vì A-đam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Ê-va. 14 Lại không phải A-đam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi. 15 Dầu vậy, người sẽ được cứu qua sự mang thai, nếu họ tiếp tục ở trong đức tin, sự yêu thương, sự nên thánh với tâm trí tỉnh táo. Phân đoạn trên đây là lời khuyên dạy của Chúa đối với những phụ nữ đã là con dân của Chúa. Vì thế, nội dung của nó áp dụng cho những phụ nữ là những “người đàn bà tin kính Chúa” (câu 10), đã được cứu rỗi ra khỏi tội lỗi và hậu quả của tội lỗi, đã được kết hợp làm một trong Hội Thánh, là thân thể của Đức Chúa Jesus Christ. Đây không phải là phân đoạn dành cho những phụ nữ chưa được cứu. Vì thế, thụ động từ “được cứu” không hề có nghĩa là được cứu ra khỏi tội lỗi và hậu quả của tội lỗi là sự chết đời đời.
Hỏi & Đáp: I Ti-mô-thê 2:15                                                                                    Trang 1
Từ ngữ “được cứu” trong câu 15 được dịch từ chữ “σω  ζω  ,” G4982, của tiếng Hy-lạp, phiên âm quốc tế là [sōzō], phiên âm Việt ngữ là /xô-dồ/, bao gồm những nghĩa sau đây: 1. Giữ cho an toàn. 2. Cứu khỏi những sự phiền muộn, những sự thiệt thòi, những sự thiếu kém, những sự bách hại, những sự đau đớn, những sự nguy hiểm, những sự hủy diệt... 3. Chữa lành những thương tích, những bệnh tật. 4. Cứu khỏi quyền lực của tội lỗi, hậu quả của tội lỗi, và sự đoán phạt dành cho tội lỗi. Giới từ “qua” trong nguyên ngữ Hy-lạp là “δια,” G1223, phiên âm quốc tế là [dia], phiên âm Việt ngữ là /đi-a/, bao gồm những nghĩa sau đây: 1. Trải qua một nơi chốn nào đó. 2. Trong suốt một khoảng thời gian nào đó. 3. Thông qua một sự việc nào đó. 4. Thông qua một phương tiện nào đó. 5. Bởi một nguyên cớ nào đó, bởi một lý do nào đó. 6. Bởi một hành động nào đó, bởi một sự kiện nào đó. Như vậy, mệnh đề: ”người sẽ được cứu qua sự mang thai” có nghĩa là: “Người sẽ được giữ cho an toàn trong suốt thời gian mang thai. Người sẽ được cứu khỏi những sự phiền muộn, những sự thiệt thòi, những sự thiếu kém, những sự bách hại, những sự đau đớn, những sự nguy hiểm, những sự hủy diệt... trong suốt thời gian mang thai. Người sẽ được chữa lành những thương tích, những bệnh tật trong suốt thời gian mang thai. Vì cớ sự phạm tội của Ê-va mà bản thân bà và tất cả những phụ nữ ra từ bà đều phải gánh chung án phạt của Thiên Chúa: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng Thế Ký 3:16). Nhưng những phụ nữ nào “tin kính Chúa” (câu 10) và “tiếp tục ở trong đức tin, sự yêu thương, sự nên thánh với tâm trí tỉnh táo” (câu 15) thì sẽ được cứu khỏi những “điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén” và khỏi sự “đau đớn mỗi khi sanh con.” Nhân đây, chúng ta cũng hãy tìm hiểu ý nghĩa của từng câu trong I Ti-mô-thê 2:9-14 về những điều Chúa dạy những người phụ nữ trong Hội Thánh. 9 Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và tâm trí tỉnh táo giồi mình, không dùng những kiểu tóc, vàng, châu ngọc và áo quần quý giá, “Ta” là tiếng tự xưng của Sứ Đồ Phao-lô. Dầu là lời dạy của Phao-lô nhưng lời đó được Đức Thánh Linh thần cảm, cho nên, đó cũng chính là Lời Chúa, là ý muốn của Chúa cho phụ nữ trong Hội Thánh. Phụ nữ phải ăn mặc gọn ghẽ, tức là không được lôi thôi, xốc xếch, mặc sao cũng được. Phụ nữ phải lấy nết na (trong nguyên ngữ có nghĩa là biết là e thẹn) và tâm trí tỉnh táo (có nghĩa là không say rượu nhưng biết kiềm chế bản thân) mà trang điểm cho mình chứ “không dùng những kiểu tóc, vàng, châu ngọc và áo quần quý giá.” Thời xưa cũng như thời nay, có nhiều phụ nữ dùng những kiểu chải bới tóc tốn kém và lập dị (kỳ quái), cùng các loại nữ trang làm bằng vàng, bằng bạc, bằng đá quý, và quần áo mắc tiền để trang điểm. 10 nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa. Người phụ nữ tin kính Chúa thì đương nhiên biết ăn mặc gọn gàng và dùng mọi việc lành để trang điểm cho mình.
Hỏi & Đáp: I Ti-mô-thê 2:15                                                                                    Trang 2
11 Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. Người phụ nữ tin kính Chúa phải biết tiếp nhận, vâng phục sự dạy dỗ của các người chăn, các trưởng lão trong Hội Thánh, và của cha, của chồng trong gia đình. Điều này không có nghĩa là quý bà, quý cô phải tiếp nhận và vâng phục những điều giảng dạy hay những mạng lệnh, luật lệ nghịch lại Thánh Kinh. Bổn phận trước nhất và trên hết của mỗi con dân Chúa là: Thà vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời người ta (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:19), nghĩa là, khi lời của loài người nghịch lại lời của Chúa thì chúng ta phải vâng theo Lời Chúa mà bác bỏ lời của loài người. 12 Ta không cho phép đàn bà làm thầy, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng. Phụ nữ không được giữ chức vụ giảng dạy, tức “làm thầy,” và cũng không được giữ chức vụ cai trị trên đàn ông. Trong Bản Dịch Truyền Thống dịch là “Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ” khiến cho có sự hiểu lầm là phụ nữ không được giảng dạy. Phụ nữ vẫn được giảng dạy nhưng không được nắm giữ chức vụ giảng dạy, tức làm thầy, trên đàn ông. Trong những môi trường chỉ có trẻ con và phụ nữ, (như cô nhi viện, nhà tù phụ nữ), Chúa vẫn dùng phụ nữ làm những người chăn (pastor/shepherd) để cho các chiên của Ngài ăn. Trong nguyên ngữ Hy-lạp, từ ngữ “διδα  σκω  ,” G1321, phiên âm quốc tế là [didaskō], phiên âm Việt ngữ là /đi-đát-s-cô/, khi được dùng trong thì bất định có nghĩa là “dạy dỗ” nhưng khi được dùng trong thì hiện tại (như trong câu 12 trên đây) thì có nghĩa là “làm thầy.” Ý nghĩa của câu 12 là: Phụ nữ không được giữ chức vụ làm thầy hoặc cai trị đàn ông. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn có thể dạy đàn ông về lẽ Đạo như bà Bê-rít-sin đã dạy cho A-bô-lô (Công Vụ Các Sứ Đồ 18:26); và giữa Hội Thánh, phụ nữ vẫn được phép cầu nguyện và nói tiên tri, với điều kiện là phải trùm đầu để tỏ ra mình đang hành động dưới quyền của người chăn bầy trong Hội Thánh (I Cô-rinh-tô 11:5). “Nói tiên tri” (Bản Dịch Truyền Thống dịch là “giảng đạo”) không giới hạn trong ý nghĩa là nói những gì sẽ xảy ra trong tương lai, mà là bao gồm tất cả những gì mà Đức Chúa Trời cảm động cho một người nói ra, có thể là một sự giảng giải ý nghĩa của Lời Chúa hay một lời làm chứng, một lời cảm tạ, tôn vinh Chúa. 13 Vì A-đam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Ê-va. Lý do đàn bà phải ở dưới quyền đàn ông là vì: Thứ nhất, đàn bà được dựng nên để giúp đỡ đàn ông. 14 Lại không phải A-đam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi. Thứ nhì, đàn bà bị cám dỗ sa vào tội lỗi, khiến đàn ông phạm tội theo. Vì thế, đàn bà không thể ở trong chức vụ cầm quyền hoặc huấn luyện (làm thầy) đàn ông. 15 Dầu vậy, người sẽ được cứu qua sự mang thai, nếu họ tiếp tục ở trong đức tin, sự yêu thương, sự nên thánh với tâm trí tỉnh táo. Chữ “người” trong câu 15 ở trong hình thức số ít để chỉ về chữ “người đàn bà” (tức Ê-va) trong câu 14. Chữ “họ” trong câu 15 để chỉ về tất cả những phụ nữ ra từ Ê-va, với ý nghĩa: “nếu họ tiếp tục ở trong đức tin, sự yêu thương, sự nên thánh với tâm trí tỉnh táo” theo lẽ tự nhiên của những phụ nữ “tin kính Chúa” (câu 10) thì họ cũng sẽ được cứu ra khỏi hình phạt mà Thiên Chúa đã tuyên phán trong Sáng Thế Ký 3:16.
Huỳnh Christian Timothy 04.11.2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét